BÀI ĐƯỢC XEM NHIỀU

Hiển thị các bài đăng có nhãn 54 dân tộc Việt nam. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn 54 dân tộc Việt nam. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Dân tộc Cơ Lao


Tên tự gọi: Cơ Lao
Tên gọi khác: Tứ Đư, Ho Ki, Voa Đề
Nhóm địa phương: Cơ Lao Trắng, Cơ Lao Xanh, Cơ Lao Đỏ.
Dân số: 2.636 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Người Cơ Lao nói tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai. Nhiều người biết chữ Hán, dùng chữ Hán để cúng lễ.
Địa bàn cư trú: Người Cơ Lao cư trú chủ yếu ở Đồng Văn, Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang.

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Dân tộc Chứt


Tên tự gọi: Chứt.
Tên gọi khác: Rục, Arem, Sách.
Nhóm địa phương: Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng.
Dân số:  6.022 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Nguồn gốc lịch sử: Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013

Dân tộc Chu-ru


Tên tự gọi: Chu-ru
Tên gọi khác: Chơ-ru, Kru, Thượng
Số dân: 19.314 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Một số ít ở gần dân tộc Cơ-ho có tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ me.
Nguồn gốc và lịch sử: Họ là một bộ phận trong cộng đồng Chăm di chuyển lên cao nguyên, sống biệt lập và trở thành một nhóm tộc người riêng.
Địa bàn cư trú: Chủ yếu ở Lâm Đồng. Một số ở Ninh Thuận, Bình Thuận.

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

Dân tộc Chơ - ro


Tên tự gọi: Chơ-ro
Tên gọi khác: Châu Ro, Dơ Ro, Chro, Thượng.
Dân số: 26.855 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Nguồn gốc lịch sử: Họ là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Ðông Dương.
Địa bàn cư trú: sống tập trung ở vùng núi thấp thuộc tây nam và

Dân tộc Chăm


Tên gọi chính thức: Chăm
Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời.
Các nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Pôông. Chà Và Ku, Chàm Châu Đốc.
Số dân: 161.729 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói của người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Người Chăm có chữ viết riêng, dựa trên hệ thống văn tự Sascrit.

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

Dân tộc Bru-Vân kiều


Tên tự gọi: Bru
Tên gọi khác: Bru-Vân Kiều.
Nhóm địa phương: Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong.
Dân số: 227.716 người (Tổng cục thống kê năm 2009).
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á)
Lịch sử và nguồn gốc: Là cư dân có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.

Dân tộc Brâu


Tên tự gọi: Brâu
Tên gọi khác: Brao.
Số dân: 397 người (Tổng cục Thống kê 2009)
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Nguồn gốc và lịch sử: Người Brâu chuyển cư vào Việt Nam cách đây khoảng 100 năm.
Địa bàn cư trú: Người Brâu ở Đắc Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.

Dân tộc Bố y


Tên tự gọi: Bố Y
Tên gọi khác: Chủng Chá, Trọng Gia.
Nhóm địa phương: Bố Y và Tu Dí.
Số dân: số 2.273 người (Tổng cục Thống kê năm 2009).
Ngôn ngữ: Nhóm Bố Y nói ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai), nhóm Tu Dí nói ngôn ngữ Hán (ngữ hệ Hán - Tạng).
Nguồn gốc và lịch sử: Người Bố Y di cư từ Trung Quốc sang cách đây khoảng 150 năm.
Địa bàn cư trú: Người Bố Y sống tập trung tại các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Tuyên Quang.

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

Dân tộc Ba-na


Tên tự gọi: Ba-na.
Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...
Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.
Dân số: 227.716 người (Tổng cục Thống kê năm 2009)
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á). Người Ba - na chưa có chữ viết riêng.

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

54 Dân tộc Việt nam



Việt Nam 4.000 năm lịch sử với bề dày truyền thông văn hiến, các dân tộc cùng chung sống có nhu cầu tự nhiên là phải cố kết nhau lại để chống chọi với thiên tai, giặc giã, trở thành một cộng đồng bền chặt - đại gia đình các dân tộc Việt Nam, cùng nhau dựng nước và giữ nước.
Truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, của người Thái, người Mường, người Ba Na, Ê Đê... đều mô tả người Kinh, người Thượng là anh em một nhà, đặc biệt là truyền thuyết mẹ Âu Cơ đẻ trăm trứng, đều có chung một mẹ, đều sinh từ một bọc, đều là đồng bào.
Với điều kiện địa lý tự nhiên (địa mạo, đất đai, khí hậu...) khác nhau, các dân tộc đã tìm ra