Tên gọi khác: Bru-Vân Kiều.
Nhóm địa phương: Vân Kiều,
Trì, Khùa, Ma Coong.
Dân số: 227.716 người (Tổng
cục thống kê năm 2009).
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng
nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á)
Lịch sử và nguồn gốc: Là
cư dân có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.
Địa bàn cư trú: Vùng Trường
Sơn - Tây Nguyên thuộc miền tây các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng
Bình.
Đặc điểm kinh tế: Canh tác
rẫy, trồng lúa là chính. Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn cùng nguồn lợi
khác. Chăn nuôi trâu (về sau có cả bò), lợn, gà, chó là phổ biến. Nghề thủ công
không phát triển. Quan hệ trao đổi hàng hoá chủ yếu với người Việt và người
Lào.
Phong tục tập quán:
Ăn: Người Bru-Vân Kiều ăn
cơm tẻ, canh rau nấu lẫn với gạo thường ngày, thích các món nướng; quen ăn bốc,
uống nước lã, rượu cần, hút thuốc lá bằng tẩu.
Ở: Mỗi làng là một điểm cư
trú quần tụ. Mỗi gia đình có nhà sàn, bếp lửa bố trí ngay trên sàn nhà, kiêng nằm
ngang sàn. Nhóm Trì, Khùa, Ma Coong nhà thường ngăn thành buồng làm chỗ ngủ
riêng cho vợ chồng gia chủ, cho bố mẹ già (nếu có), cho con đã lớn.
Phương tiện vận chuyển: Người
Bru-Vân Kiều dùng các loại gùi, đeo gùi sau lưng, 2 quai gùi quàng vào đôi vai.
Chiếc gùi gắn bó khăng khít với mỗi người như hình với bóng, là vật dụng vận tải
đa năng.
Hôn nhân: Nhà trai tổ chức
cười vợ cho con khi có đủ đồ sính lễ (không thể thiếu thanh kiếm và chiếc nồi đồng).
Sau khi cười, thực hiện lễ "khơỉ' (công nhận cô dâu là thành viên trong
dòng họ nhà chồng) nữa.
Tang ma: Người chết sau 2,
3 ngày mới được đưa ma và chôn vào bãi mộ chung của làng. Quan tài bằng thân
cây khoét rỗng, nhiều thứ từ đồ vật dụng, hạt giống được khâm liệm cùng.
Lễ hội: Nhiều lễ hội liên
quan đến chu kỳ sản xuất (Mừng lúa mới, được mùa, phát rẫy, rước hồn lúa..) và
vòng đời (sinh ra, trưởng thành, mất đi..)
Tín ngưỡng: Chú trọng
thờ cúng tổ tiên và thờ đa thần (Yang, thần lúa, thần bếp lửa, thần núi, thần đất,
thần sông nước v.v...
Trang phục: Theo
phong tục, nam đóng khố, nữ mặc váy, còn áo không có tay, mặc chui đầu. Trước
kia thường dùng vỏ cây rừng đập dập lấy xơ để che thân. Ðồ trang sức thường đeo
là các loại vòng ở cổ, tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng
thanh nữ búi lệch tóc về phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh
đầu.
Đời sống văn hóa: Ca dao,
tục ngữ, truyện cổ của người Bru-Vân Kiều rất phong phú. Dân ca có nhiều làn điệu
độc đáo(vừa hát vừa kể hay "sim"). Nhạc cụ truyền thống phổ biến là:
cồng, chiêng, đàn Achung, Plư, Ta-lư, kèn Amam, Ta-ral, khèn Pi, nhị, đàn môi,
trống, sáo...