BÀI ĐƯỢC XEM NHIỀU

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

Dân tộc Bru-Vân kiều


Tên tự gọi: Bru
Tên gọi khác: Bru-Vân Kiều.
Nhóm địa phương: Vân Kiều, Trì, Khùa, Ma Coong.
Dân số: 227.716 người (Tổng cục thống kê năm 2009).
Ngôn ngữ và chữ viết: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á)
Lịch sử và nguồn gốc: Là cư dân có nguồn gốc lâu đời nhất ở vùng Trường Sơn.

Địa bàn cư trú: Vùng Trường Sơn - Tây Nguyên thuộc miền tây các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế, Quảng Bình.
Đặc điểm kinh tế: Canh tác rẫy, trồng lúa là chính. Rừng và sông suối cung cấp nhiều thức ăn cùng nguồn lợi khác. Chăn nuôi trâu (về sau có cả bò), lợn, gà, chó là phổ biến. Nghề thủ công không phát triển. Quan hệ trao đổi hàng hoá chủ yếu với người Việt và người Lào.
Phong tục tập quán:
Ăn: Người Bru-Vân Kiều ăn cơm tẻ, canh rau nấu lẫn với gạo thường ngày, thích các món nướng; quen ăn bốc, uống nước lã, rượu cần, hút thuốc lá bằng tẩu.
: Mỗi làng là một điểm cư trú quần tụ. Mỗi gia đình có nhà sàn, bếp lửa bố trí ngay trên sàn nhà, kiêng nằm ngang sàn. Nhóm Trì, Khùa, Ma Coong nhà thường ngăn thành buồng làm chỗ ngủ riêng cho vợ chồng gia chủ, cho bố mẹ già (nếu có), cho con đã lớn.
Phương tiện vận chuyển: Người Bru-Vân Kiều dùng các loại gùi, đeo gùi sau lưng, 2 quai gùi quàng vào đôi vai. Chiếc gùi gắn bó khăng khít với mỗi người như hình với bóng, là vật dụng vận tải đa năng.
Hôn nhân: Nhà trai tổ chức cười vợ cho con khi có đủ đồ sính lễ (không thể thiếu thanh kiếm và chiếc nồi đồng). Sau khi cười, thực hiện lễ "khơỉ' (công nhận cô dâu là thành viên trong dòng họ nhà chồng) nữa.
Tang ma: Người chết sau 2, 3 ngày mới được đưa ma và chôn vào bãi mộ chung của làng. Quan tài bằng thân cây khoét  rỗng, nhiều thứ từ đồ vật dụng, hạt giống được khâm liệm cùng.
Lễ hội: Nhiều lễ hội liên quan đến chu kỳ sản xuất (Mừng lúa mới, được mùa, phát rẫy, rước hồn lúa..) và vòng đời (sinh ra, trưởng thành, mất đi..)
Tín ngưỡng: Chú trọng thờ cúng tổ tiên và thờ đa thần (Yang, thần lúa, thần bếp lửa, thần núi, thần đất, thần sông nước v.v...
Trang phục: Theo phong tục, nam đóng khố, nữ mặc váy, còn áo không có tay, mặc chui đầu. Trước kia thường dùng vỏ cây rừng đập dập lấy xơ để che thân. Ðồ trang sức thường đeo là các loại vòng ở cổ, tay, khuyên tai. Xưa đàn ông, đàn bà đều búi tóc, riêng thanh nữ búi lệch tóc về phía bên trái, khi đã có chồng tóc được búi trên đỉnh đầu.
Đời sống văn hóa: Ca dao, tục ngữ, truyện cổ của người Bru-Vân Kiều rất phong phú. Dân ca có nhiều làn điệu độc đáo(vừa hát vừa kể hay "sim"). Nhạc cụ truyền thống phổ biến là: cồng, chiêng, đàn Achung, Plư, Ta-lư, kèn Amam, Ta-ral, khèn Pi, nhị, đàn môi, trống, sáo...